Vai trò của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật trong việc tham gia tư vấn, phản biện và thẩm định xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật

21/12/2016 08:00 View Count: 881

Nhận thức về tư vấn, phản biện xã hội

Tư vấn, phản biện xã hội là sự phản biện, tư vấn của các lực lượng xã hội đối với những kiến tạo chính sách, thể chế... trực tiếp liên quan đến quyền lợi của các thành viên trong cộng đồng, từ đó giúp các cơ quan hữu quan điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Như vậy, về bản chất, phản biện xã hội là sự tương tác, giao thoa về quan điểm, tư tưởng giữa các lực lượng (chính trị, kinh tế, xã hội) trong một cộng đồng. Do đó, thực tiễn và chất lượng của hoạt động phản biện nói lên tính chất tiến bộ, trình độ dân chủ, văn minh của cộng đồng ấy. Nghiên cứu phản biện xã hội, vì vậy, không thuần túy là nghiên cứu một hiện tượng mang tính liên chủ thể (chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội) mà còn tạo tiền đề để giải phẫu những vấn đề cốt yếu, nền tảng của toàn bộ hệ thống xã hội.

Phản biện xã hội được xác định là một hoạt động khoa học, là tranh luận một cách khoa học chứ không phải là hỏi xem có đồng ý hay không. So với trưng cầu dân ý, phản biện hoàn toàn khác về chất. Trưng cầu dân ý là hỏi dân. Phản biện không phải là hỏi dân. Phản biện không phải là nhân dân trả lời mà là nhân dân nói tiếng nói của mình. Về bản chất chính trị, phản biện là một quyền tự do được xây dựng trên cơ sở quyền tự do ngôn luận. Ngôn luận là bày tỏ ý kiến một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học. Đấy là một hoạt động của xã hội dân sự, nhưng không phải là hoạt động nhân dân đơn giản mà là hoạt động thông qua một hệ thống tranh luận chuyên nghiệp.

Vai trò và những nguyên tắc trong xây dựng văn bản pháp luật

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền của nước ta hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) có vai trò, tác dụng vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Bên cạnh các nguyên tắc chung về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc pháp chế; bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật thì một trong những nguyên tắc vô cùng quan trọng đó là văn bản QPPL phải bảo đảm tính khách quan, dân chủ và phải đáp ứng được yêu cầu thực tiễn xã hội, có tính khả thi cao trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật.

Nói đến nguyên tắc khách quan, chúng ta dễ dàng có thể nhận thấy. Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, văn bản pháp luật được ban hành do nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực tế cuộc sống. Đảm bảo nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật thì trước khi bắt tay vào xây dựng pháp luật cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn xã hội, các quá trình kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý xã hội; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân tộc và sắc tộc… thông tin từ việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở tốt để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Ngoài ra còn phải nghiên cứu thực tiễn pháp lý trước đó như thực tiễn quản lý, thực tiễn xét xử, hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong xã hội...

Về nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc này xuất phát từ nhu cầu tham gia rộng lớn của nhân dân và đảm bảo cho đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Mặt khác nó cho phép phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của nhân dân.

Nếu quần chúng, nhân dân càng tham gia rộng rãi và tích cực vào công việc xây dựng pháp luật thì các quy định pháp luật càng đảm bảo đầy đủ và toàn diện hơn lợi ích, ý nguyện của họ. Sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật sẽ là điều kiện để đảm bảo sự thực hiện pháp luật nghiêm minh và có hiệu quả sau này. Nhân dân tham gia xây dựng pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau như bầu các đại biểu tham gia hoạt động vào các cơ quan nhà nước các đại biểu này có quyền quyết định những vấn đề cơ bản của công tác xây dựng pháp luật. Thông qua các tổ chức xã hội thực hiện phản biện dự án luật, đóng góp ý kiến cho cơ quan, tổ chức để trình dự án luật (đóng góp ý kiến bằng miệng, bằng văn bản; phát biểu ở các hội nghị, viết bài cho báo chí; gửi thư điện tử...). Để đảm bảo nguyên tắc này thì nhà nước phải không ngừng mở rộng dân chủ, các cơ quan nhà nước phải thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo và phải coi đó là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.

 Chính vì vậy, để xây dựng được hệ thống văn bản bảo đảm nguyên tắc khách quan, dân chủ, mang tính khả thi cao thì không thể không có các hoạt động của người dân tham gia vào quy trình ban hành văn bản. Hay nói cách khác, đã có sự tham gia của hoạt động phản biện xã hội vào quy trình ban hành văn bản. Và trong một xã hội dân chủ, một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại thì việc tham gia này là một tất yếu.

Cơ sở pháp lý và vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật với hoạt động tư vấn, phản biện xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật

Tại Điều 4, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy dịnh:

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức khác, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản”.

Điều 35 của Luật cũng quy định:

Trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến”.

Với vị trí pháp lý là thành viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật có vai trò tập hợp, đoàn kết rộng rãi đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, là đầu mối giữa các Hội thành viên với các cơ quan Đảng, Nhà nước, điều hòa phối hợp có hiệu quả hoạt động của các Hội thành viên, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của trí thức khoa học và công nghệ. Bên cạnh các hoạt động khoa học, tri thức; các Hội viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh còn tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật, đóng góp ý kiến, tư vấn, phản biện xã hội đối với việc ban hành các chủ trương, chính sách pháp luật. Đặc biệt, tham mưu cho Tỉnh ủy và UBND tỉnh ban hành các chủ trương, chính sách, các văn bản pháp quy, những chích sách đặc thù của địa phương. Qua đó, huy động được trí tuệ và chất xám khoa học của đội ngũ trí thức Liên hiệp các Hội khoa hoạc, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. 

Phản biện xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật được xem là sự đánh giá về tính hợp lý, sự chính đáng, đúng đắn của một chính sách hay quy định pháp luật của nhà nước dưới góc độ lợi ích của toàn xã hội hay một nhóm xã hội nào đó. Nhận thức được vai trò to lớn đó của phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã quy định rõ quyền của các cá nhân, tổ chức trong việc tham gia góp ý kiến đối với các dự thảo văn bản QPPL. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo Dự thảo văn bản QPPL phải đăng tải trên trang điện tử của cơ quan mình. Đây là một trong những “kênh” để phản biện đối với các dự thảo văn bản. Nếu làm tốt các hoạt động này thì chất lượng xây dựng văn bản QPPL sẽ ngày một tốt hơn. 

Càng ngày chúng ta càng thấy rõ hơn những ý nghĩa tích cực của phản biện xã hội, của phương châm “dân biết, dân bàn”. Bởi phản biện là tạo ra sự tương tác, sự hợp tác giữa các lực lượng xã hội để tìm ra phương án tối ưu nhất, làm tăng thêm chất lượng, tính thuyết phục, sự sáng suốt trong các quyết định của những người thay mặt nhân dân lãnh đạo, quản lý đất nước.

Xét về nội dung, hình thức và mục đích thì hoạt động phản biện có nhiều điểm tương đồng với “đóng góp ý kiến, kiến nghị”. Bởi đóng góp ý kiến và kiến nghị cũng thể hiện ở việc chủ thể đóng góp ý kiến, kiến nghị có thể nêu ra các quan điểm, ý kiến, đề nghị của mình (có thể bằng văn bản và cũng có thể bằng lời nói) về các vấn đề mà họ quan tâm hoặc có ảnh hưởng đến lợi ích của họ và/hoặc lợi ích chung của xã hội. Phản biện và đóng góp ý kiến, kiến nghị đều trên tinh thần xây dựng với mục đích làm cho cho công trình, dự án hay hoạt động nào đó được tốt hơn, hoàn thiện, phù hợp hơn... trong tương lai.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức cán bộ”  trong đó đặc biệt “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước” Nghị quyết của Đảng cũng yêu cầu: “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các Đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”.

Chủ trương trên của Đảng đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan, tổ chức của Đảng, các cơ quan của Nhà nước, tổ chức Mặt trận, các tổ chức chính trị- xã hội khác và các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như sự chú ý từ các tổ chức quốc tế và các lực lượng ở ngoài nước. Điều này cũng minh chứng cho quá trình dân chủ hoá đời sống nhà nước và xã hội đã và đang diễn ra trên đất nước ta hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, thời gian qua nhiều cuộc thảo luận, tranh luận sôi nổi về các vấn đề liên quan đến phản biện xã hội như đối tượng phản biện, giá trị, tác dụng của phản biện xã hội…

Phản biện xã hội, đương nhiên là phản biện từ phía xã hội, các chủ thể phản biện ở đây được xem là các tổ chức phi nhà nước (tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức thuộc xã hội dân sự…), các cộng đồng dân cư (làng xã, khu dân cư, vùng dân cư, các dân tộc…), các nhóm lợi ích xã hội (nhóm xã hội có chung lợi ích như thanh niên, phụ nữ, trẻ em, người già…), các cá nhân.

Đối tượng phản biện xã hội là các hoạt động của Đảng và Nhà nước, mà cụ thể là: Việc hoạch định và tổ chức thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng, kể cả đối với công tác tổ chức cán bộ; các kế hoạch hoạt động và công tác tổ chức thực hiện những chính sách, các dự án pháp luật, các quyết định lớn của Nhà nước có ảnh hưởng lớn tới môi trường sống, tới lợi ích của nhiều người, cần phải cân nhắc, tính toán thật kỹ lưỡng trước khi tiến hành. Chủ thể yêu cầu phản biện là những tổ chức, cơ quan, cá nhân quản lý, sử dụng hoặc sáng tạo những đối tượng cần phản biện.

Hoạt động phản biện xã hội đối với chính sách hay quy định pháp luật còn có tác dụng mở rộng và thực hành dân chủ, để các tổ chức, cá nhân có điều kiện thể hiện được quan điểm, chính kiến của mình đối với các vấn đề thuộc đối tượng phản biện có ảnh hưởng lớn hoặc lâu dài đến lợi ích của cộng đồng, nhà nước, xã hội hoặc các cá nhân nhằm hướng tới các giá trị của “chân - thiện - mỹ”, vì mức sống và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Tránh được những ý kiến đóng góp chỉ mang tính chất ủng hộ, khen một chiều, thậm chí là xu nịnh các tác giả của chính sách hay quy định pháp luật được đưa ra để mọi người đóng góp ý kiến.

Bên cạnh những tác dụng tốt như đã nêu trên thì phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật cũng có những vấn đề nhất định của nó mà không phải tổ chức, cá nhân nào cũng muốn tiến hành. Bởi hoạt động phản biện xã hội đôi khi còn làm chậm tiến độ của dự án, gây phức tạp vấn đề, kinh phí cho hoạt động này cũng không nhỏ. Ngoài ý kiến đồng tình, ủng hộ, trong hoạt động phản biện có thể có cả những ý kiến không ủng hộ gây khó khăn cho ý định, mong muốn của cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật. Và ở một mức độ nào đó các ý kiến không đồng tình, không ủng hộ cũng phản ánh năng lực, trình độ hoặc có thể là động cơ không trong sáng của cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật trong trường hợp đó. Do vậy, chỉ những cơ quan, cá nhân nào với động cơ trong sáng, cầu thị, thực sự vì lợi ích chung, vì tiến bộ xã hội thì mới mong muốn và ủng hộ phản biện xã hội đối với chính sách hay quy định pháp luật mà mình có thẩm quyền ban hành.

Chính vì vậy, phản biện xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách, xây dựng các văn bản pháp luật, các quyết định lớn liên quan đến lợi ích, sự phát triển của đất nước ở nước ta chỉ có thể được tiến hành và tiến hành thuận lợi khi có sự lãnh đạo kịp thời của các tổ chức đảng, sự kiên quyết của các cơ quan nhà nước và sự phối hợp hoạt động có hiệu quả của các tổ chức, cá nhân được yêu cầu phản biện.

Có thể nói, vấn đề phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam đang trong quá trình định hình và hoàn thiện, nhưng những gì mà xã hội Việt Nam làm được trong thời gian qua thông qua hình thức góp ý, kiến nghị với Đảng, Nhà nước Việt Nam là vô cùng to lớn và hiệu quả. Mặc dù chỉ là những ý kiến đóng góp và kiến nghị của các tổ chức và cá nhân mà Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền đã kiên quyết điều chỉnh, thay đổi một số dự án văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp và hiệu quả hơn, tạo dựng lòng tin của nhân dân vào sự sáng suốt, đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc nhận ra và quyết tâm điều chỉnh hoặc sửa chữa những sai lầm, hạn chế trong những quyết sách, những dự án pháp luật của mình sao cho hiệu quả, phù hợp với nguyện vọng, mong muốn của nhân dân. Những kết quả đó có tác dụng cổ vũ, khuyến khích các tổ chức, cộng đồng, cá nhân chủ động tham gia và tham gia tích cực, có hiệu quả vào việc đóng góp ý kiến, kiến nghị với Đảng và Nhà nước về các chủ trương, quyết sách, những văn bản, quy định pháp luật quan trọng của có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của đất nước và nhân dân.

Giải pháp nâng cao vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật trong việc tư vấn, phản biện, thẩm định xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật

Để có thể phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để mặt trận và các đoàn thể nhân dân nói chung và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật  tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội cần:

Một là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, phương thức hoạt động. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên phải thực sự là công bộc của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xây dựng và hoàn thiện thể chế liên quan đến hoạt động phản biện đối với  hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước theo hướng tăng tính bắt buộc của các nhận xét, đánh giá phản biện. Trước hết là đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần phải có những quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, hình thức và trình tự phản biện của từng chủ thể cụ thể. Bởi muốn phản biện xã hội đạt được hiệu quả thì phản biện phải có định hướng, có nơi, có chỗ nên phạm vi, quy mô, nội dung các vấn đề cần phản biện phải được tính toán, cân nhắc sao cho phù hợp với mục đích phản biện.

Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt động và năng lực phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để khi được yêu cầu phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật và các hoạt động khác của Đảng và Nhà nước họ có thể đưa ra những đánh giá, ý kiến phản biện có chất lượng, đảm bảo tính khoa học, độ tin cậy của việc phản biện.

Hai là, hoàn thiện quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đối với những quyết định lớn của Đảng và Nhà nước phải bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể và phải có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến.

Ba là, xây dựng Luật trưng cầu dân ý (để tranh thủ ý kiến nhân dân, hạn chế những biểu hiện phản đối, bất bình của nhân dân đối với các chính sách, các văn bản của các cơ quan nhà nước). Đối với những chính sách, dự thảo văn bản pháp luật có ảnh hưởng lớn tới quốc kế, dân sinh thì ngoài việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, thì trong những điều kiện cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tổ chức yêu cầu phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

Bốn là, thực hiện đầy đủ việc công khai, minh bạch những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước (trừ những gì cần phải bí mật). Các cơ quan nhà nước không nên dựa vào các lý không chính đáng để bưng bít thông tin, đặt cơ quan nhà nước cấp trên hoặc nhân dân trước những quyết định đã rồi. Việc bưng bít thông tin, không thực hiện đúng quy chế dân chủ, không thực hiện đánh giá phản biện xã hội trước khi đưa ra những quyết định, những văn bản pháp luật nhiều khi phải trả bằng những giá quá đắt là tiền của, công sức của nhà nước, của nhà đầu tư mà xét đến cùng là của nhân dân, là sự sói mòn, sự tổn thương lòng tin của nhân dân vào năng lực và sự công tâm của những người đại diện cho họ. Những người đó đại diện cho nhân dân những lại không nói lên tiếng nói của nhân dân, làm ngược lại với lợi ích của nhân dân đối lập với nhân dân.

Năm là, bảo đảm các hoạt động phản biện xã hội trong việc tham gia xây dựng văn bản pháp luật phải được tiến hành một cách thực chất. Kết quả phản biện, tham gia đóng góp ý kiến vào Dự thảo văn bản pháp luật phải được tổng hợp, nghiêm túc tiếp thu để hoàn thiện Dự thảo hoặc không tiếp thu thì phải có ý kiến giải trình. Thể hiện sự tôn trọng của cơ quan Nhà nước, cơ quan ban hành văn bản đối với nhân dân, cơ quan, tổ chức đã tích cực tham gia đóng góp ý kiến. Có như vậy, mới từng bước nâng cao

chất lượng, thể hiện sự chuyên nghiệp để thu hút ngày càng nhiều trí tuệ tập thể của Nhân dân trong các hoạt động phản biện khoa học để tham gia ý kiến xây dựng văn bản pháp luât. Góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực sự của dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

Source: BTT